Đời thứ 12: Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam

Ông Nguyễn Khoa Nam sanh ngày 23 tháng Bảy 1927 tại Đà Nẵng, xuất thân trong một gia đình văn học, tôn sùng Phật giáo; con trai của cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh tra Học chánh Đà Nẵng, được phong Thái thường Tự khanh lúc về hưu. Mẹ của ông là Công Tôn nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lý Vương.

Đỗ Thành chung năm 1944, Tú tài năm 1946. Sau khi tốt nghiệp Trường Hành chánh Huế ông nhậm chức chủ sự phòng ngân sách tại Sở Ngân khố Trung Việt, 1951 1953.

Năm 1953, tốt nghiệp Khoá 3 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức và tình nguyện gia nhập binh chủng nhảy dù, với cập bậc Thiếu uý. Từ tháng 12 1953 đến tháng 7 1954, giữ chức vụ Trung đội trưởng Tiểu đoàn 7 Nhảy dù. Năm 1955, ông được thăng Đại đội trưởng Tiểu đoàn 7.

Năm 1958, ông được cử quan sát các trung tâm huấn luyện nhảy dù tại Pau (Pháp) và tại Nhật. Đầu năm 1961, ông được thăng cấp đại uý. Ông được cử đi Hoa Kỳ tham dự khóa học Chiến tranh Rừng rậm tại Fort Braggs năm 1962; qua năm sau, khóa Bộ binh Cao cấp tại Fort Benning. Nhờ thông thạo ngoại ngữ, ông thuyết trình lưu loát về các vấn đề quân sự trước các phái đoàn ngoại quốc trên nhiều cương vị khác nhau.    

Năm 1965, ông được thăng cấp thiếu tá, giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù. Tháng 5 năm 1966, đơn vị dù do thiếu tá Nam chỉ huy phối hợp với Sư đoàn 2 Bộ binh hành quân tiêu diệt một sư đoàn của Bắc việt ở Quảng Ngãi. Thiếu tá được tặng cấp Đệ tứ đẳng Bảo quốc Huân chương.

Năm 1967, được vinh thăng trung tá chỉ huy Chiến đoàn 3 Nhảy dù. Sau trận chiến ở đồi Ngok van ở Kontum, ông được cấp Đệ tam đẳng Bảo quốc Huân chương. Ong cũng được cấp tặng Distinguished Service Medal, Silver Star và Distinguished Flying Cross của quân đội Hoa Kỳ (các tài liệu này còn được lưu trữ tại bộ Quốc phòng Hoa Kỳ).

Năm 1968, Chiến đoàn 3 được tăng cường thành Lữ đoàn 3 Dù và được đưa về bảo vệ Sài Gòn trong các trận đánh Tết Mậu Thân. Trung tá Nam được vinh thăng đại tá.

Năm 1970, ông giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh kiêm tư lệnh Khu Chiến thuật Tiền Giang. Giữa năm 1970, ông được thăng Chuẩn tướng tại mặt trặn. Năm 1972, ông được vinh thăng Thiếu tướng nhiệm chức, và năm 1972, Thiếu tướng thực thụ. Năm 1973, ông được bổ nhiệm Tư lệnh Quân đoàn IV/Quân khu IV, chỉ huy quân sự và hành chánh 15 tỉnh miền Tây Nam phần.

Ông tuẫn tiết sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975 để giữ trọn khí tiết một tướng lãnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa khi cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam. Ông qua đời lúc mới 48 tuổi.

                                                                                     

Trích trong Tuyển tập Nguyễn Khoa Nam

(tác giả Nguyễn Mạnh Trí)